TP.HCM: Kiến tạo hệ sinh thái cho doanh nghiệp lớn cất cánh
Việc mở rộng địa giới hành chính và tích hợp các trung tâm công nghiệp lớn giúp TP,HCM không chỉ gia tăng quy mô kinh tế, mà còn đặt nền nóng để hình thành lực lượng doanh nghiệp tư nhân dẫn dắt - những “đại bàng” mới của nền kinh tế Việt Nam.
TP.HCM mở lối, tạo bệ phóng cho các doanh nghiệp “đại bàng”
Với đầu tàu kinh tế TP.HCM, sau sự kiện sáp nhập với Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu đã đưa Thành phố bước vào một giai đoạn hoàn toàn mới, không chỉ mở rộng về địa giới và dân số, mà còn tạo ra một vùng động lực hội tụ sức mạnh kinh tế chưa từng có trong nửa thế kỷ qua. Đây là cơ hội lịch sử để định hình một siêu đô thị với sự hiện diện của những doanh nghiệp đầu tàu đủ tầm vóc dẫn dắt thị trường trong nước và cạnh tranh trên trường quốc tế.

Trong bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (VNR500) do Công ty CP Báo cáo Đánh giá Việt Nam công bố, TP.HCM sau sáp nhập hiện có 202 doanh nghiệp góp mặt. Đáng chú ý, trong báo cáo đến hết năm 2024 này có tới 197 doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân, dẫn đầu là những tên tuổi lớn như Thế Giới Di Động, Masan, Vinamilk… Theo Nghị quyết số 68‑NQ/TW của Bộ Chính trị, mục tiêu chiến lược là ươm tạo ít nhất 20 doanh nghiệp tư nhân lớn có khả năng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu trước năm 2030. Trực thuộc Thành phố mới, các doanh nghiệp đầu tàu tại TP.HCM không chỉ mang lại giá trị kinh tế khổng lồ mà còn đặt nền móng cho một hệ sinh thái phát triển công nghiệp thương mại - dịch vụ hiện đại, có sức lan tỏa lớn và khả năng cạnh tranh toàn cầu.
Trong lực lượng doanh nghiệp niêm yết - nhóm đại diện tiêu biểu nhất cho khu vực doanh nghiệp có năng lực, TP.HCM hiện đang giữ vai trò nổi bật. Được biết, các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố chiếm khoảng 32% tổng giá trị vốn hóa toàn thị trường.
Thực tế, quá trình sáp nhập đã kéo theo sự quy tụ của hàng loạt tập đoàn kinh tế lớn - những cột trụ của nền sản xuất và thương mại quốc gia. Ngoài các tên tuổi nhà nước như Becamex IDC, Liên doanh Dầu khí Việt - Nga Vietsovpetro, Hóa dầu Long Sơn… thì còn là sự xuất hiện ngày càng đậm nét của khối doanh nghiệp tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể, Công ty CP Đầu tư Thế Giới Di Động - “ông lớn” trong ngành bán lẻ thiết bị công nghệ đang có trụ sở đặt tại phường Phú Cường (tỉnh Bình Dương cũ, nay là phường Thủ Dầu Một, TP.HCM). Thế Giới Di Động đang sở hữu 97.000 tỷ đồng vốn hóa trên sàn chứng khoán. Hay Tân Hiệp Phát là doanh nghiệp ở ngành nước giải khát cũng có trụ sở đặt tại Bình Dương cũ (nay thuộc phường Bình Hòa, TP.HCM mới). Một loạt doanh nghiệp thuộc ngành hàng tiêu dùng nhanh, thực phẩm, đồ uống khác như Mondelez Kinh Đô, Cà phê Trung Nguyên, Sữa quốc tế LOF, Mentholatum… hay ngành gỗ và nội thất như Wanek Furniture, Gỗ An Cường, Gỗ Thuận An… cũng đã chính thức về chung một nhà với TP.HCM và có trụ sở đặt tại TP.HCM.
Đặc biệt, khi sáp nhập với các địa phương công nghiệp trọng điểm - nơi tập trung nhiều doanh nghiệp niêm yết quy mô lớn, giới chuyên gia tại Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA) đánh giá tỷ trọng đóng góp của Thành phố mới vào thị trường vốn có khả năng gia tăng đáng kể. Dù chưa có dự báo chính thức, một số phân tích độc lập cho rằng tỷ lệ này hoàn toàn có thể tiệm cận mức 40% nếu thống kê đầy đủ các doanh nghiệp có trụ sở hoặc hoạt động chủ lực tại vùng được mở rộng.
Những “khoảng trống” của doanh nghiệp tiến tới danh xưng “đại bàng”
Hiển nhiên, không phải cứ sở hữu tài sản nghìn tỷ hay quy mô hàng ngàn lao động là có thể gọi là “đại bàng”. Cần rạch ròi giữa một doanh nghiệp lớn theo nghĩa kế toán - tài chính với một đại bàng theo nghĩa chiến lược quốc gia. “Đại bàng” phải là lực lượng dẫn dắt - những doanh nghiệp không chỉ chiếm lĩnh thị phần lớn, mà còn có khả năng mở rộng thị trường mới, thiết lập chuẩn mực ngành, dẫn dắt chuỗi giá trị và lan tỏa công nghệ, quản trị ra xung quanh.

Theo PGS-TS. Nguyễn Hữu Huân - Đại học Kinh tế TP.HCM, chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật, có nhiều doanh nghiệp quy mô lớn, với khối tài sản tầm cỡ, nhưng hiện tại chưa hề có những doanh nghiệp xứng tầm “đại bàng”.
Họ không phát triển đơn độc, mà kéo theo một hệ sinh thái vệ tinh gồm nhà cung ứng, đối tác, trường đại học, tổ chức R&D và cả các doanh nghiệp khởi nghiệp. Thiếu vắng những “đầu tàu” như vậy, nền kinh tế sẽ mãi vận hành theo lối chia nhỏ, manh mún, không tạo được lực kéo đủ mạnh để hội nhập sâu vào chuỗi cung toàn cầu hay giải bài toán tự chủ kinh tế.
Đề cập đến những khoảng trống của “đại bàng”, PGS-TS. Nguyễn Hữu Huân cho rằng, khu vực tư nhân của chúng ta còn quá non trẻ. Thực tế, phải đến khi Luật Doanh nghiệp thì kinh tế tư nhân mới thật sự được khuyến khích phát triển, và gần đây vai trò của kinh tế tư nhân mới được xem là quan trọng nhất trong nền kinh tế. So với các tập đoàn nước ngoài có lịch sử hàng trăm năm và hệ sinh thái hỗ trợ lâu đời, doanh nghiệp Việt mới chỉ có hơn 20 năm để trưởng thành - còn rất ngắn ngủi.
Về chính sách, khu vực tư nhân hiện vẫn chưa có nhiều cơ hội thực sự để tham gia vào các dự án tầm cỡ quốc gia. Dù chủ trương luôn nhấn mạnh việc khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia, nhưng trên thực tế, việc tiếp cận các dự án lớn còn nhiều rào cản. Quy trình lựa chọn nhà đầu tư tư nhân trong nhiều trường hợp vẫn thiếu minh bạch, phổ biến là tình trạng chỉ định thầu hoặc áp dụng các tiêu chí đánh giá không rõ ràng, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh bình đẳng.
Bên cạnh đó, theo TS. Nguyễn Đức Kiên - Nguyên Tổ trưởng Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, trừ một vài trường hợp hiếm hoi đang nỗ lực vươn ra toàn cầu, phần lớn các chính sách hỗ trợ hiện nay vẫn mang tính rời rạc, thiếu đồng bộ và chưa đủ tầm để tạo nên những ngành kinh tế mũi nhọn thực sự. Đây là điểm yếu lớn trong tư duy phát triển, khi chưa hình thành được một thị trường nội địa đủ vững chắc để nuôi dưỡng và bảo vệ các doanh nghiệp tiên phong vượt lên khỏi giới hạn nội địa.
Ngoài ra, phần lớn doanh nghiệp tư nhân lớn hiện nay vẫn xuất phát từ bất động sản - một lĩnh vực tạo lợi nhuận nhanh nhưng không bền vững. Sự thiếu vắng các trường hợp chuyển dịch thành công sang công nghiệp chế biến, công nghệ cao hay năng lượng sạch cho thấy khoảng trống nghiêm trọng trong chiến lược đa dạng hóa và chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, điều kiện tiên quyết để trở thành “đại bàng”.
Nhưng đó mới chỉ là những thách thức về mô hình phát triển. Trên thực tế, theo chuyên gia kinh tế PGS-TS. Đinh Trọng Thịnh cho biết, các doanh nghiệp còn đang phải xoay xở trong môi trường kinh doanh nhiều rào cản: hạ tầng logistics quá tải, chi phí vận chuyển cao, thủ tục hành chính phức tạp, chính sách thiếu nhất quán và môi trường pháp lý biến động khó lường. Thiếu đất công nghiệp, khan hiếm nhân lực chất lượng cao, cùng với áp lực cạnh tranh mạnh mẽ từ khối FDI càng khiến doanh nghiệp nội địa khó “cất cánh”.
Về nội tại, nhiều doanh nghiệp vẫn ít đầu tư cho R&D hoặc đầu tư chưa hiệu quả, tỷ trọng đổi mới sáng tạo để bứt phá tăng trưởng từ công nghệ còn chưa được như kỳ vọng. Với những doanh nghiệp có tiềm năng thì tâm lý “ngại lớn” cũng vẫn tồn tại, cùng sự thiếu liên kết trong nội ngành và liên ngành, đang làm giảm sức bật và khả năng tích lũy nội lực để bước ra thế giới…