TP.HCM nhiệm kỳ mới: Hiện thực hóa tầm nhìn 'siêu đô thị' mang tầm quốc tế
Dự thảo Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 xác định rõ mục tiêu tới năm 2030, Thành phố trở thành một đô thị văn minh, hiện đại; là trung tâm đổi mới sáng tạo, năng động, hội nhập đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; có vị trí nổi trội ở khu vực Đông Nam Á; nằm trong nhóm 100 thành phố toàn cầu, đáng sống và có hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của thế giới, thuộc nhóm thu nhập cao.

Sau sáp nhập, tổng diện tích của Thành phố Hồ Chí Minh đạt 6.773 km², tương đương 2,04% diện tích cả nước, tạo điều kiện thuận lợi cho quy hoạch vùng đô thị tích hợp. Dân số mới ước tính 13,608 triệu người, chiếm 13,4% dân số cả nước (101,344 triệu người). Trong đó, lực lượng lao động đang làm việc đạt khoảng 7,281 triệu người, tương ứng 14% tổng số lao động toàn quốc (51,806 triệu người). Đây là nguồn nhân lực quy mô lớn, góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp - dịch vụ vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Về kinh tế, GRDP hợp nhất của Thành phố đạt khoảng 2,971 triệu tỷ đồng (tương đương 120,8 tỷ USD), chiếm 23,6% GRDP cả nước. Nếu loại trừ dầu khí tại Bà Rịa - Vũng Tàu, con số này vẫn đạt trên 2,821 triệu tỷ đồng, chiếm 22,3% toàn quốc. Điều này cho thấy sức mạnh kinh tế của TP.HCM mới là kết quả tổng hợp và cộng hưởng từ ba vùng kinh tế năng động. GRDP đạt 198,1 triệu đồng (khoảng 8.244 USD), cao hơn 1,74 lần so với trung bình cả nước. Nếu không tính dầu khí, mức bình quân đầu người vẫn đạt 187,4 triệu đồng, cao gấp 1,64 lần toàn quốc.
Về thu ngân sách Nhà nước, Thành phố đóng góp 681.000 tỷ đồng, tương đương 33,4% tổng thu ngân sách Nhà nước cả nước, trong khi chi ngân sách là 237,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,4% tổng chi. Điều này cho thấy tầm quan trọng tài khóa của Thành phố Hồ Chí Minh mới trong ngân sách quốc gia.
Hoạt động thương mại đối ngoại cũng rất sôi động, với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 179,3 tỷ USD, chiếm 22,8% tổng kim ngạch cả nước, trong đó xuất khẩu là 89,4 tỷ USD và nhập khẩu 89,9 tỷ USD. Tổng vốn đầu tư xã hội của Thành phố mới đạt 631,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 17,1% tổng vốn đầu tư xã hội cả nước. Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ đạt 1.683 nghìn tỷ đồng, tương đương 26,3% cả nước, phản ánh sức mua lớn và hệ thống phân phối phát triển mạnh.
Dự thảo Báo cáo nhấn mạnh, Thành phố Hồ Chí Minh hợp nhất với tỉnh Bình Dương và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là bước ngoặt chưa từng có trong lịch sử phát triển đô thị Việt Nam. Từ đó mở ra cơ hội mở rộng thị trường, tăng sức hút đầu tư, kết nối hạ tầng, kết nối chuỗi sản xuất và nâng tầm vị thế quốc tế, tiếp cận nguồn tài chính, công nghệ tiên tiến.
Đây là sự cấu hình lại toàn diện không gian phát triển, nơi ba cực kinh tế năng động bậc nhất cả nước hội tụ, với tầm nhìn mới là "siêu đô thị quốc tế" của Đông Nam Á, Top 100 thành phố đáng sống nhất thế giới, nhằm thực hiện sứ mệnh tiên phong, dẫn dắt và lan tỏa phát triển cho cả nước. Với thế mạnh là những địa phương phát triển hàng đầu, ba địa phương hợp nhất đã tạo nên một thực thể hành chính - kinh tế đặc biệt, bổ sung cho nhau khá hoàn chỉnh, tái cấu trúc không gian phát triển theo tư duy "một trung tâm, ba vùng, một đặc khu", tối ưu hóa chia sẻ lợi thế so sánh của từng khu vực hội tụ các điều kiện để trở thành siêu đô thị đa trung tâm phát triển theo ba hành lang, với năm trụ cột (trung tâm công nghiệp, logistics; trung tâm tài chính quốc tế; du lịch và công nghiệp văn hóa; trung tâm giáo dục - y tế - khoa học công nghệ).
Tuy nhiên, Dự thảo Báo cáo cũng thẳng thắn nhìn nhận Thành phố vẫn đối mặt với nhiều khó khăn do kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ; thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao; vấn đề ô nhiễm môi trường còn nhiều thách thức; chênh lệch giàu nghèo còn lớn. Đồng thời, những thách thức từ cạnh tranh thu hút đầu tư, thích ứng biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh mạng và giữ gìn bản sắc văn hóa xã hội yêu cầu Thành phố phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh bằng những giải pháp phù hợp, linh hoạt và hiệu quả.

Dự thảo Báo cáo nêu rõ, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt nhiệm kỳ tới là kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vận dụng sáng tạo cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước vào thực tiễn. Gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ chính trị, trong đó phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng, tăng cường quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên.
Cùng với đó, thúc đẩy phát triển Thành phố bằng các đột phá chiến lược về phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; đảm bảo an ninh năng lượng; phát triển giáo dục và đào tạo; tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Tận dụng mọi thời cơ, tranh thủ mọi nguồn lực để bứt phá vươn lên xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thành trung tâm kinh tế, tài chính, công nghệ, dịch vụ, giáo dục và y tế hàng đầu khu vực Đông Nam Á và Châu Á, trở thành một đầu mối lớn về giao thông và logistics, đạt các tiêu chuẩn quốc tế về đô thị thông minh, hiện đại, bền vững.
Đặc biệt, cần khẳng định vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng bộ, chính quyền Thành phố, lấy hạnh phúc và sự hài lòng của nhân dân làm thước đo tính hiệu quả của hệ thống chính trị.
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng bộ. Tập trung xây dựng bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp ngày càng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ nhân dân.
Về mục tiêu phát triển, dự thảo xác định mục tiêu xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị Thành phố trong sạch, vững mạnh; tiếp tục hoàn thiện mô hình về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; phát huy truyền thống đoàn kết, năng động, nghĩa tình, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, tiên phong vì cả nước, cùng cả nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới.
Huy động mọi nguồn lực, khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế, vị trí chiến lược và hiệu quả phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh, bền vững. Hướng tới 100 năm thành lập Đảng (2030), Thành phố trở thành một đô thị văn minh, hiện đại, trung tâm đổi mới sáng tạo, năng động, hội nhập đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, có vị trí nổi trội ở khu vực Đông Nam Á, nằm trong nhóm 100 thành phố toàn cầu, đáng sống và có hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của thế giới, thuộc nhóm thu nhập cao.
Tầm nhìn đến 100 năm thành lập nước (2045), Thành phố nằm trong nhóm 100 thành phố tốt nhất thế giới, xứng tầm siêu đô thị quốc tế của Đông Nam Á; là trung tâm kinh tế, tài chính, du lịch, dịch vụ, giáo dục, y tế của châu Á, điểm đến hấp dẫn toàn cầu; kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển đặc sắc, bền vững; chất lượng sống cao, hội nhập quốc tế sâu rộng.

Các mục tiêu chủ yếu
Trong Dự thảo Báo cáo, giai đoạn 2025 – 2030, về kinh tế, TPHCM đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân 10 - 11%/năm. Đến năm 2030, GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 14.000 - 15.000 USD. Tổng vốn đầu tư xã hội bình quân 5 năm 35 - 40% GRDP. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GRDP đạt 60%. Kinh tế số chiếm từ 30 - 40%/GRDP. Tổng chi xã hội cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2 - 3% GRDP, bố trí ít nhất 4 - 5% tổng chi ngân sách hằng năm cho khoa học, công nghệ, chuyển đổi số. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân khoảng 8,0%/năm.
Về xã hội, Thành phố phấn đấu đạt Chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức trên 0,8. Đến năm 2030, đạt 35,1 giường bệnh/10.000 dân, 21 bác sĩ/10.000 dân và 35 điều dưỡng/10.000 dân. Đến năm 2030, 100% người dân Thành phố được khám sức khỏe ít nhất 01 lần/năm. Đến năm 2030, tỉ lệ trường đạt chuẩn quốc gia: Mầm non đạt tỉ lệ 40%; Tiểu học đạt tỉ lệ 45%; Trung học cơ sở đạt tỉ lệ 50%; Trung học phổ thông đạt tỉ lệ 38,5%. Tỉ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế trên 95%. Tỉ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội đạt 62% lực lượng lao động trong độ tuổi. Phấn đấu đến năm 2030, không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo Thành phố.
Về đô thị và môi trường, Thành phố đặt mục tiêu tỉ lệ đất giao thông trên đất xây dựng đô thị đạt 16 - 26%. Tỉ lệ thu gom nước thải đô thị đến năm 2030 đạt khoảng 80%. Tỉ lệ nước thải đô thị được xử lý đạt quy chuẩn đến năm 2030 đạt 40 - 45%. Tỉ lệ rác thải sinh hoạt được tái chế, xử lý bằng công nghệ mới trên 90%. Tỉ lệ che phủ rừng duy trì ổn định 11%. Đến cuối năm 2030, số căn hộ nhà ở xã hội tăng thêm 199.400 căn. Đến cuối năm 2030, phấn đấu hoàn thành công tác di dời 50% căn nhà trên và ven kênh rạch trên địa bàn Thành phố (20.000 căn).
Về quốc phòng, an ninh, Thành phố phấn đấu đảm bảo tuyển quân hằng năm đạt 100%, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh toàn diện, "mẫu mực tiêu biểu", đáp ứng yêu cầu quốc phòng, an ninh. Giảm tối thiểu 5% mỗi năm số vụ phạm tội về trật tự xã hội và an toàn giao thông. Hằng năm, phấn đấu kéo giảm 5% tổng số vụ cháy cấp III trở lên. Phấn đấu đạt, vượt chỉ tiêu 50% xã, phường, đặc khu không ma túy; 100% xã, phường, đặc khu trên địa bàn Thành phố không phức tạp về ma túy; tiến tới kiểm soát và đẩy lùi tội phạm và tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống xã hội.
Về xây dựng Đảng: Tỉ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt chất lượng hoàn thành tốt nhiệm vụ năm sau cao hơn năm trước, giảm tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng yếu kém xuống dưới 0,5%/năm. 100% người đứng đầu cấp ủy thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương. Hằng năm có trên 90% tổ chức cơ sở đảng, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tỉ lệ kết nạp đảng viên mới đạt từ 3 - 4% tổng số đảng viên cuối kỳ năm trước. Thực hiện kiểm tra, giám sát đối với 100% tổ chức đảng, đảng viên theo chương trình và kế hoạch; thực hiện kiểm tra, giám sát 100% việc thực hiện các kết luận sau kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng, đảng viên. 100% tổ chức đảng xây dựng thực hiện chuyển đổi số có hiệu quả. Hằng năm, các cấp ủy đảng trực thuộc có ít nhất 01 mô hình "Dân vận khéo"; trong nhiệm kỳ có ít nhất 50 mô hình "Dân vận khéo" được nhân rộng.