Ứng dụng khoa học công nghệ lai tạo giống lúa chất lượng cao
Trong quá trình chuyển đổi của ngành lúa gạo Việt Nam theo hướng nâng cao chất lượng, phát triển bền vững và giảm phát thải, hoạt động lai tạo giống lúa giữ vai trò then chốt. Đây không chỉ là nền tảng để nâng cao giá trị và vị thế thương hiệu gạo Việt trên thị trường quốc tế, mà còn là yếu tố trọng yếu để thực hiện hiệu quả Đề án phát triển bền vững một triệu hecta lúa chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030.

Hướng đến đa mục tiêu về chất lượng gạo cao
Trong bối cảnh ngành lúa gạo Việt Nam đang dần chuyển hướng sang phát triển theo mô hình chất lượng cao, bền vững và ít phát thải, công tác lai tạo giống lúa đóng vai trò trọng yếu. Đây là nền tảng để nâng cao vị thế thương hiệu gạo Việt trên thị trường toàn cầu, đồng thời là yếu tố then chốt bảo đảm sự thành công của Đề án phát triển bền vững 1 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030.
Bàn về vai trò của giống lúa trong tổng thể Đề án, TS Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long, khẳng định rằng: giống lúa là nhân tố trung tâm trong việc xây dựng mô hình sản xuất thân thiện với môi trường, giảm phát thải, bảo đảm chất lượng và đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Theo ông, để ngành hàng lúa gạo phát triển bền vững, trước hết cần có những giống lúa chất lượng cao, phù hợp với nhiều phân khúc thị trường.
Ông Thạch cho biết thêm, hiện nay hệ thống giống lúa Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ về chất lượng như độ dẻo, mùi thơm và hàm lượng dinh dưỡng. Tuy nhiên, trong tương lai, tiêu chuẩn về giống sẽ trở nên khắt khe hơn, không chỉ dừng lại ở chất lượng mà còn bao gồm khả năng phát thải thấp và thích ứng với biến đổi khí hậu. Vì vậy, công tác lai tạo giống cần được định hướng theo mục tiêu đa dạng, vừa đáp ứng yêu cầu về chất lượng gạo cao, khả năng chế biến tốt, giàu dinh dưỡng, vừa thích ứng với mô hình canh tác tiết kiệm nước và giảm phát thải khí nhà kính.
Được biết, trong giai đoạn từ 2012 đến nay, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đã và đang thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu chọn tạo giống lúa (25 đề tài/dự án các cấp về chọn tạo giống), trong đó tập trung cho giống lúa chất lượng cao phục vụ xuất khẩu, giống lúa chống chịu với điều kiện bất lợi của môi trường như hạn, mặn, ngập… và chống chịu với sâu bệnh .
Cùng với việc chọn tạo và chuyển giao các giống lúa mới vào sản xuất, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đã nghiên cứu và chuyển giao có hiệu quả các quy trình công nghệ và các giải pháp kỹ thuật canh tác theo hướng bền vững, tăng năng suất, tăng chất lượng và nâng cao hiệu quả kinh tế cho nông dân trên nhiều vùng sinh thái khác nhau ở đồng bằng sông Cửu Long.
Một xu thế nổi bật hiện nay là đa dạng hóa sản phẩm gạo phục vụ các phân khúc thị trường. Theo ông Thạch, nhu cầu của thị trường thế giới đang đi theo hướng gạo thơm cao cấp, gạo nếp chế biến, gạo Nhật Bản, gạo dinh dưỡng… Chính vì vậy, các viện nghiên cứu đang lai tạo các dòng lúa phù hợp với từng phân khúc này, đồng thời tận dụng công nghệ để rút ngắn thời gian chọn giống, tăng độ chính xác và năng suất chọn tạo.
Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long cũng đang tập trung vào việc tạo ra các giống lúa vừa thơm ngon, phù hợp cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu, vừa có khả năng giảm phát thải trong canh tác. Bên cạnh đó, đánh giá khả năng phát thải của từng giống lúa để sàng lọc và nhân rộng các giống phát thải thấp và đây là yếu tố sống còn trong mục tiêu tăng trưởng xanh.

Không có mô hình canh tác hợp lý, tiềm năng của giống không thể phát huy
Trong khuôn khổ triển khai Đề án 1 triệu hecta lúa tại Đồng bằng sông Cửu Long, ngoài việc lựa chọn các giống lúa chất lượng cao, nhiều giải pháp kỹ thuật tiên tiến cũng đang được đồng thời áp dụng, như phương pháp quản lý nước ngập - khô xen kẽ (AWD), giảm lượng giống gieo sạ và đưa vào sử dụng các thiết bị cơ giới hiện đại như máy bay không người lái để phun giống, máy gieo cụm,…
Hiện tại, Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long đã tiến hành thử nghiệm gieo sạ bằng thiết bị bay không người lái với lượng giống 60 - 70kg/ha trên diện tích hơn 10ha và thu được kết quả rất tích cực. Trong thời gian tới, Viện dự kiến mở rộng mô hình này lên 200ha và sẽ tổng hợp, báo cáo kết quả cho Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam để xem xét nhân rộng trong toàn Đề án.
Việc giảm lượng giống gieo sạ không chỉ giúp nông dân cắt giảm chi phí sản xuất mà còn góp phần hạn chế phát thải khí nhà kính. Trước đây, nông dân thường gieo với mật độ từ 100 - 150kg/ha, nhưng nhờ vào sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại và nhận thức ngày càng nâng cao, nhiều mô hình hiện đã giảm xuống còn 60 - 70kg/ha mà vẫn đảm bảo năng suất.
Một tín hiệu tích cực khác là hệ thống sản xuất giống ngày càng được hoàn thiện. Mạng lưới sản xuất giống cấp xác nhận đã được thiết lập với sự tham gia của hợp tác xã, doanh nghiệp và nông dân. Theo thống kê, khoảng 80% nông dân hiện nay đã chuyển sang sử dụng giống xác nhận, thay vì giữ lại giống từ vụ trước như trước đây.
Hiện nay, Nhà nước đang tích cực hỗ trợ các đơn vị nghiên cứu và sản xuất giống siêu nguyên chủng nhằm chuyển giao cho các doanh nghiệp và hợp tác xã tiếp tục nhân giống nguyên chủng và giống xác nhận. Mục tiêu là hình thành một chuỗi cung ứng giống hoàn chỉnh, đảm bảo chất lượng từ khâu đầu vào đến sản phẩm cuối cùng là hạt lúa thu hoạch.
TS Trần Ngọc Thạch nhấn mạnh rằng, với nền tảng khoa học công nghệ hiện có, đội ngũ nghiên cứu giàu kinh nghiệm cùng sự hỗ trợ từ Nhà nước, ngành giống lúa Việt Nam đang từng bước hướng đến những mục tiêu cao hơn như tự chủ công nghệ, phát triển giống phù hợp với từng vùng sinh thái, từng mô hình canh tác và đáp ứng đa dạng nhu cầu của các phân khúc thị trường.
Song song đó, việc nâng cao năng lực nghiên cứu và tăng cường hợp tác giữa Nhà nước, các viện nghiên cứu và doanh nghiệp cũng đang được chú trọng. Nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đã và đang quan tâm đầu tư vào lĩnh vực giống lúa, bởi giống là yếu tố tiên quyết ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất.