Đề xuất áp dụng nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” trong tính phí bảo vệ môi trường
Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Nghị định mới thay thế Nghị định số 53/2020/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Động thái này nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của quy định hiện hành, bảo đảm sự thống nhất với hệ thống pháp luật, đồng thời tạo thuận lợi cho việc áp dụng và triển khai trên thực tế.
Hiện nay, quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp vẫn tồn tại những bất cập, đặc biệt ở cách xác định đối tượng chịu phí. Danh mục 14 nhóm ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất, chế biến được liệt kê trong Nghị định 53/2020/NĐ-CP chưa bao quát hết các hoạt động xả thải thực tế, dẫn đến nhiều trường hợp vướng mắc trong triển khai. Không ít cơ sở sản xuất, chế biến không được nêu cụ thể trong danh mục đã cho rằng mình không thuộc diện chịu phí, từ đó không thực hiện kê khai và nộp phí theo quy định, gây khó khăn cho cơ quan quản lý.

Theo Bộ Tài chính, Điều 2 Nghị định 53/2020/NĐ-CP xác định đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường gồm nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt, trừ các trường hợp miễn phí. Trong đó, nước thải công nghiệp là nước thải từ 14 nhóm ngành, nghề sản xuất, chế biến; còn nước thải sinh hoạt bao gồm nước thải từ hộ gia đình, cá nhân, cơ quan, đơn vị sự nghiệp, cơ sở kinh doanh dịch vụ như rửa xe, sửa chữa ô tô, khách sạn, nhà hàng, đào tạo, khám chữa bệnh… Các định nghĩa này trước đây được xây dựng dựa trên Luật Bảo vệ môi trường 2014 và các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp và sinh hoạt ban hành giai đoạn 2008 - 2011.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật thay đổi. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia mới về nước thải công nghiệp (ban hành 28/2/2025) mở rộng phạm vi định nghĩa, bao gồm cả nước thải từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; khu, cụm công nghiệp; khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung. Quy chuẩn mới về nước thải sinh hoạt và nước thải đô thị, khu dân cư tập trung cũng điều chỉnh, bổ sung nước thải từ một số loại hình kinh doanh, dịch vụ vào nhóm quản lý như nước thải sinh hoạt. Điều này đồng nghĩa một số loại hình trước đây thuộc nhóm nước thải công nghiệp nay được quản lý theo cơ chế nước thải sinh hoạt, và ngược lại.
Trên thực tế, theo phân ngành kinh tế Việt Nam, hiện có khoảng 1.570 ngành nghề sản xuất, kinh doanh được phép đăng ký. Nhiều hoạt động xả thải phát sinh từ các cơ sở nhỏ lẻ, mang tính mùa vụ, hoặc gắn với điều kiện tự nhiên, nhưng chưa được đề cập trong danh mục hiện hành. Có thể kể đến các hoạt động như chăn nuôi gia súc, gia cầm ở nông thôn, miền núi; giết mổ tại chợ; nuôi trồng thủy sản ở ao, hồ, sông suối, vùng ven biển; hay các nghề truyền thống như làm bún, nấu rượu. Việc bỏ sót các đối tượng này không chỉ tạo ra khoảng trống trong quản lý mà còn làm giảm tính công bằng và hiệu quả của chính sách phí bảo vệ môi trường.
Để khắc phục, Bộ Tài chính đang soạn thảo nghị định mới thay thế Nghị định 53/2020/NĐ-CP, hướng tới quy định rõ ràng, dễ hiểu, sát thực tế và khả thi hơn. Mục tiêu là bảo đảm nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, đồng thời xem xét nghĩa vụ thuế, phí liên quan đến bảo vệ môi trường một cách tổng thể để tránh chồng chéo hoặc mâu thuẫn giữa phí và thuế. Việc điều chỉnh cũng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ, đầu tư xử lý nước thải, giảm thiểu phát thải chất ô nhiễm, qua đó góp phần thay đổi hành vi xả thải và nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường.
Nhiều ý kiến cho rằng việc áp dụng thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp trong một số trường hợp hiện nay chưa thật sự sát với thực tế. Lý do là nhiều cơ sở sản xuất nằm ở khu vực kinh tế - xã hội khó khăn, vốn đang rất cần các chính sách hỗ trợ để phát triển và cải thiện đời sống người dân. Việc áp dụng mức phí đồng loạt có thể tạo thêm gánh nặng, trong khi năng lực quản lý, giám sát và quy mô sản xuất ở những nơi này còn hạn chế.
Thực tế, không ít doanh nghiệp thuộc diện phải nộp phí bảo vệ môi trường với nước thải công nghiệp lại không hề phát sinh loại nước thải này. Thay vào đó, họ chỉ xả nước thải sinh hoạt từ hoạt động ăn uống, sinh hoạt của công nhân hoặc nhân viên văn phòng. Điều này phổ biến ở các ngành như may mặc, giày dép, làng nghề tiểu thủ công nghiệp, nhà máy cấp nước sạch, gia công cơ khí không xi mạ, sản xuất văn phòng phẩm, dược phẩm, phối trộn phân bón, chế biến gỗ, xay xát lúa gạo hay sản xuất năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời. Việc thu phí đối với những trường hợp này được đánh giá là chưa hợp lý.
Từ thực tiễn đó, cơ quan soạn thảo đề xuất điều chỉnh quy định về đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, nhằm vừa đảm bảo đúng tinh thần của pháp luật hiện hành, vừa phản ánh sát thực tế sản xuất, kinh doanh. Theo dự thảo mới, phạm vi điều chỉnh sẽ bao gồm nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt, trừ các trường hợp được miễn phí nêu tại Điều 5 Nghị định.
Nước thải công nghiệp được định nghĩa là loại phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các khu hoặc cụm công nghiệp; trong khi nước thải sinh hoạt là loại phát sinh từ sinh hoạt hàng ngày của con người hoặc từ những ngành dịch vụ được quản lý như nước thải sinh hoạt. Đáng chú ý, dự thảo bỏ việc liệt kê cụ thể ngành nghề, thay vào đó dẫn chiếu tới pháp luật chuyên ngành để bảo đảm tính bao quát, tránh bỏ sót và thuận tiện trong áp dụng.
Ngoài ra, số trường hợp được miễn phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sẽ tăng từ 7 lên 9, giúp chính sách trở nên linh hoạt và phù hợp hơn với tình hình thực tế.